(43-544)
Mã Viện đánh được Trưng-vương đem đất Giao-chỉ về thuộc nhà Hán như củ, rồi chỉnh đốn binh lương, đem quân đi đánh dẹp các nơi, đi đến đâu xây thành đắp lũy đến đấy và biến cải mọi cách chính trị trong các châu quận. Đem phủ-trị về đóng Mê-linh13 và dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: "Đồng trụ chiết, Giao-chỉ diệt." Nghĩa là cây đồng trụ mà đổ thì người Giao-chỉ mất nòi.
Sử chép rằng người Giao-chỉ đi qua lại chỗ ấy, ai cũng bỏ vào chân cột đồng-trụ một hòn đá, cho nên về sau chỗ ấy thành ra núi, phủ mất cả, đến bây giờ không biết cột ấy ở chỗ nào.
Từ đó chính-trị nhà Đông Hán càng ngày càng ngặt thêm, mà những quan-lại sang cai-trị Giao-chỉ thường có lắm người tàn-ác, tham nhũng, bắt dân lên rừng xuống bể để tìm những châu-báu. Dân ở quận Hợp-phố cứ phải xuống bể mò ngọc trai khổ quá, đến nổi phải bỏ xứ mà đi.
Triều đình thì xa, quan-lại ra cai-trị thì tha hồ mà tung-hoành, tiếng oan-ức kêu không thấu vào đâu, cho nên thường hay có sự loạn-lạc, làm cho dân-gian phải nhiều sự khổ-sở.
Quan cai-trị đã tàn-ác, nhà vua lại bạc đãi người bản xứ. Đời bấy giờ người mình dẫu có học hành thông thái cũng không được giữ việc chính-trị. Mãi đến đời vua Linh-đế(168-189) cuối nhà Đông-Hán mới có một người bản xứ là Lý Tiến được cất lên làm Thứ -sử ở Giao-chỉ. Lý Tiến dâng sớ xin cho người Giao chỉ được bổ đi làm quan như ở Trung-châu bên Tàu. Nhưng Hán-đế chỉ cho những người đỗ mậu tài hoặc hiếu-liêm được làm lại-thuộc ở trong xứ mà thôi, chứ không được đi làm quan ở châu khác. Bấy giờ có người Giao-chỉ tên là Lý Cầm làm lính túc-vệ hầu vua ở trong điện, rủ mấy người bản xứ ra phục xuống sân mà kêu cầu thảm thiết. Hán-đế mới cho một người Giao-chỉ đỗ mậu-tài đi làm quan-lệnh ở Hạ dương và một người đỗ hiếu-liêm làm quan-lệnh ở Lục-hợp. Về sau Lý Cầm làm đến quan Tư-lệ Hiệu -úy và lại có Trương Trọng cũng là người Giao-chỉ làm thái thú ở Kim-thành. Người Giao-chỉ ta được làm quan như người bên Tàu, khởi đầu từ Lý Tiến và Lý Cầm vậy.
Về cuối đời nhà Đông-Hán, giặc cướp nổi lên khắp cả bốn phương, triều-đình không có uy-quyền ra đến ngoài, thiên-hạ chỗ nào cũng có loạn. Đất Giao-chỉ bấy giờ nhờ có quan thái-thú là Sĩ Nhiếp cùng với anh em chia nhau giữ các quận huyện, cho nên mới được yên.
Tiên-tổ nhà ông Sĩ Nhiếp là người nước Lỗ, vì lúc Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, mới tránh loạn sang ở đất Quảng-Tín, quận Thương-ngô, đến đời ông thân sinh ra Sĩ Nhiếp là sáu đời. Ông thân sinh tên là Sĩ Tứ làm thái thú quận Nhật-nam, cho Sĩ Nhiếp về du học ở đất Kinh-sư, đỗ hiếu liêm được bổ Thượng-thư-lang, vì việc quan phải cách, rồi về chịu tang cha. Sau lại đỗ mẫu-tài được bổ sang làm Thái-thú ở quận Giao-chỉ.
Năm quí-mùi (203) là năm thứ 3 đời vua Hiến-đế quan Thứ-sử là Trương Tân cùng với quan Thái-thú Sĩ Nhiếp dâng sớ xin cải Giao-chỉ làm Giao-Châu. Vua nhà Hán Thuận cho. Sau vì trong châu có lắm giặc-giã, Sĩ Nhiếp mới tâu xin vua nhà Hán cho mấy anh em làm Thái-thú quận Cửu- chân, quận Hợp phố và quận Nam-Hải. Sĩ Nhiếp giữ được đất Giao-châu khỏi loạn và vẫn giữ lệ triều cống như cũ, cho nên vua Hiến-đế lại phong cho chức An-viễn tướng quân Long-độ đình-hầu Sĩ Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân cho nên lòng người cảm-mộ công-đức, mới gọi tôn lên là Sĩ-vương.
Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sĩ Nhiếp. Cái ý kiến đó có lẽ không phải. Vì rằng từ khi nhà Hán cai trị đất Giao-chỉ đến đời Sĩ Nhiếp đã được hơn 300 năm, người Giao-chỉ đã có người học hành thi đỗ hiếu liêm, mậu tài. Vậy nói rằng đến ông Sĩ Nhiếp mới có nho- học thì chẳng sai lắm ru. Hoặc giả ông ấy là một người có văn học trong khi làm quan, lo mở-mang sự học-hành, hay giúp đỡ những kẻ có chữ-nghĩa, cho nên về sau mới được, cái tiếng làm học tổ ở nước Nam tưởng như thế thì có thể hợp lẽ hơn.
Nhà Đông-Hán mất ngôi thì nước Tàu phân ra làm ba nước: Bắc-ngụy, Tây-thục, Đông-ngô. Đất Giao- châu bấy giờ thuộc về Đông-ngô.
Sĩ Nhiếp ở Giao-châu được 40 năm, tuy thiệt có uy-quyền ở cõi Giao- châu, nhưng vẫn theo lệ triều cống nhà Hán, và đến khi nhà Hán mất thì lại triều cống nhà Ngô.
Năm bính-ngọ (226) là năm Hoàng-vũ thứ 5 nhà Ngô, Sĩ Nhiếp mất, con Sĩ Huy tự xưng làm Thái-thú. Ngô-chủ là Tôn quyền bèn chia đất Giao- châu, từ Hợp phố về bắc gọi là Quảng-châu. Sai Lữ Đại làm Quảng Châu thứ sử, Đái Lương làm Giao-châu thứ sử, và sai Trần Thì sang thay Sĩ Nhiếp làm thái-thú quận Giao-chỉ.
Bọn Đái Lương và Trần Thì sang đến Hợp-phố thì Sĩ Huy đem quân ra chống giữ. Thứ Sử Quảng châu là Lữ Đại mới tiến quân sang đánh dẹp, và cho người đến dụ Sĩ Huy ra hàng. Sĩ Huy đem 5 anh em ra hàng, Lữ Đại sai bắt Sĩ Huy đem chém đi, còn mấy anh em thì đem về Ngô-triều làm tội.
Ngô-chủ lại hợp Quảng-Châu và Giao-Châu lại làm một, và phong cho Lữ Đại làm Thứ-sử. Lữ Đại đem quân đi đánh quận Cửu-chân có công được phong làm Giao-châu-mục.
Năm mậu-thìn (248) là năm xích-ô thứ 11 nhà Đông ngô, Ngô chủ sai Lục Dậu sang làm thứ-sử Giao-châu.
Năm ấy ở quận Cửu-chân có người đàn bà tên là Triệu Thị Chinh khởi binh đánh nhà Ngô.
Sử ta chép rằng bà Triệu là người huyện Nông-cống bấy giờ. Thủa nhỏ cha mẹ mất cả, ở với anh là Triệu quốc Đạt, dến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu ác nghiệt, bà ấy giết đi rồi vào ở trong núi. Bà ấy là một người có sức mạnh, lại có chí-khí và lắm mưu-lược. Khi vào ở trong núi chiêu mộ hơn 1,000 tráng sĩ để làm thủ hạ. Anh thấy thế mới can bà, thì bà bảo rằng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng-kình ở bể đông chứ không thèm bắt-chước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì-thiếp người ta."
Năm mậu-thìn (248) vì quan-lại nhà Ngô tàn-ác, dân-gian khổ-sở, Triệu quốc Đạt mới khởi binh đánh quận Cửu-chân. Bà đem quân ra đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu quốc Đạt thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi bà ra trận thì cưỡi voi và mặc áo giáp vàng là Nhụy-kiều tướng-quân.
Thứ sử Giao-châu là Lục Dận đem quân đi đánh, bà chống nhau với nhà Ngô được năm sáu tháng . Nhưng vì quân ít thế cô, đánh mãi phải thua, bà đem quân chạy đến xã Bồ-điền (nay là xã Phú-điền thuộc huyện Mỹ-hóa) thì tự-tử. Bấy giờ mới 23 tuổi.
Về sau vua Nam Đế nhà Tiền-Lý, khen là người trung-dũng sai lập miếu thờ, phong là: "Bất chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu-nhân". Nay ở xã Phú-điền, tỉnh Thanh-hóa còn đền thờ.
Năm giáp-thân (264) là năm Nguyên-hưng nguyên-niên, vua nhà Ngô lại lấy đất Nam-hải, Thương-ngô và Uất-lâm làm Quảng-châu, đặt châu-trị ở Phiên ngung; lấy đất Hợp-phố, Giao-chỉ, Cửu-chân, và Nhật-nam làm Giao Châu, đặt châu-trị ở Long Biên. Đất Nam-Việt của nhà Triệu ngày trước thành ra Giao-châu và Quảng-châu từ đấy.
Đất Giao-châu đời bấy giờ cứ loạn-lạc mãi, những quan-lại nhà Ngô thì thường là người tham-tàn, vơ-vét của dân, bởi vậy người Giao-châu nổi lên giết quan thái-thú đi rồi về hàng nhà Ngụy.
Năm ất dậu (256) nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, rồi sai quan sang giữ Giao-châu. Nhà Ngô sai Đào Hoàng sang lấy lại. Đào Hoàng được phong là Giao-châu mục. Năm canh tí (280) nhà Ngô mất nước. Đào Hoàng về nhà Tấn, được giữ chức cũ. Đất Giao-châu từ đó thuộc về nhà Tấn.
Nhà Tấn được thiên-hạ rồi, thấy nhà Ngụy vì thế cô mà mất, bèn đại phong cho họ-hàng và sai ra trấn các nơi để làm vây cánh cho nhà vua. Nhưng cũng vì lẽ ấy mà các thân vương thường vì lòng tham danh-lợi cứ dấy binh đánh giết lẫn nhau, làm cho anh em trong nhà, cốt nhục tương tàn, mà ngôi vua cũng thành ra suy nhược.
Thời bấy giờ ở phía tây-bắc có những người nhung-địch thấy nhà Tấn có nội loạn, bèn lũ-lượt nổi lên chiếm giữ dần dần lấy cả vùng phía bắc sông Trường-giang rồi xưng đế, xưng vương, như nước Triệu, nước Tần, nước Yên, nước Lương, nước Hạ, nước Hán v. v... cả thảy trước sau đến 16 nước, gọi là loạn Ngũ-Hồ15.
Đất Giao-châu ta vẫn thuộc về nhà Tấn. Những quan lại sang cai-trị cũng như quan lại đời nhà Hán, nhà Ngô, thỉnh thoảng mới gặp được một vài người nhân từ tử tế, thì dân gian mới được yên ổn, còn thì là những người tham lam, độc-ác, làm cho nhân dân phải lầm than khổ sở. Cũng lắm khi bọn quan lại có những người phản nghịch đánh giết lẫn nhau, làm cho trong nước cứ phải loạn lạc luôn.
ĐẤt Giao-châu lúc bấy giờ trong thì có quan lại nhũng-nhiễu, ngoài thì có người nước Lâm-ấp vào đánh phá.
Nước Lâm-Ấp (sau gọi là Chiêm-Thành) ở từ quận Nhật-nam vào cho đến Chân-Lạp, nghĩa là ở vào quãng từ tỉnh Quảng-Bình, Quảng-Trị cho đến đất Nam-Việt bây giờ. Người Lâm-ấp có lẽ là nòi giống Mã-lai, theo tông giáo và chính trị Ấn Độ. Nước ấy cũng là một nước văn minh và cường thịnh ở phía nam lúc bấy giờ, nhưng không rõ nước ấy khởi đầu thành nước từ lúc nào. Sách "Khâm-định Việt Sử" chép rằng: năm nhâm-dần (102) đời nam có huyện Tượng-lâm, người huyện ấy cứ hay sang cướp phá ở quận Nhật-nam, bởi vậy vua nhà Hán mới đặt quan cai-trị ở huyện ấy, để phòng giữ sự rối loạn.
Đến cuối đời nhà Hán có người huyện Tương-lâm tên là Khu Liên giết huyện-lệnh đi, rồi tự xưng làm vua, gọi nước là Lâm-ấp. Dòng dõi Khu Liên thất truyền, bởi vậy cháu ngoại của Phạm Hùng lên nối nghiệp.
Trong đời Tam-quốc, người Lâm-ấp hay sang cướp phá ở quận Nhật-nam và quận Cửu-chân, bởi vậy khi nhà Tấn đã lấy được Đông-ngô rồi, ý muốn giảm bớt quân ở các châu quận, nhưng quan thứ sử Giao-châu là Đào Hoàng dâng sớ về tâu rằng: "Vua nước Lâm-ấp là Phạm Hùng thông với nước Phù Nam hay sang quấy nhiễu ở đất Nhật-nam nếu lại giảm bớt quân ở Giao-châu đi, thì sợ quân Lâm-ấp lại sang đánh phá."
Xem như vậy thì nước Lâm-Ấp đã có từ đầu đệ nhị thế kỷ.
Phạm Hùng truyền cho con là Phạm Dật. Phạm Dật mất, thì người gia nô là Phạm Văn cướp mất ngôi. Phạm Văn truyền cho con là Phạm Phật.
Năm quí-sửu (353) đời vua Mục-đế nhà Đông-Tấn, thứ-sử Giao-châu là Nguyễn Phu đánh vua Lâm-ấp là Phạm Phật, phá được hơn 50 đồn lũy. Phạm Phật mất, truyền ngôi lại cho con cháu là Phạm Hồ-Đạt. Năm kỷ hợi (399) Phạm Hồ-Đạt đem quân sang đánh lấy hai quận Nhật-nam và Cửu- chân rồi lại đi đánh Giao-châu. Bấy giờ có thái thú quận Giao-chỉ là Đỗ Viện đánh đuổi người Lâm-Ấp, lấy lại hai quận. Đỗ Viện được phong làm Giao- châu thứ-sử.
Năm quí-sửu (413) Phạm Hồ-Đạt lại đem quân sang phá ở quận Cửu-chân. Khi bấy giờ con Đỗ Viện là Đỗ Tuệ-Độ làm Giao-châu thứ sử đem binh ra đuổi đánh, chém được tướng Lâm-ấp là bọn Phạm Kiện và bắt được hơn 100 người.
Người Lâm-Ấp vẫn còn hay tính đi cướp phá, cứ năm ba năm lại sang quấy nhiễu ở đất Nhật nam. Đỗ Tuệ-Độ định sang đánh Lâm-ấp để trừ cái hại về sau, bèn đến năm canh-thân (420) cất binh mã sang đánh, chém giết tàn hại, rồi bắt người Lâm-ấp cứ hàng năm cống tiến: voi, vàng, bạc, đồi-mồi v.v. Từ đó mới được tạm yên.
Dòng dõi Phạm Hồ-Đạt làm vua được mấy đời lại bị quan Lâm-ấp là Phạm Chư Nông cướp mất ngôi. Phạm Chư Nông truyền cho con là Phạm Dương Mại.
Khi Phạm Dương Mại làm vua nước Lâm-ấp, thì nhà Tấn đã mất rồi, nước Tàu phân ra Nam-triều và Bắc-triều. Phạm Dương Mại lại nhân dịp đó sang quấy nhiễu Giao châu.
Năm canh thân (420) Lưu Dụ cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía Nam. Lúc bấy giờ ở phía Bắc thì nhà Ngụy gồm được cả nước Lương, nước Yên, nước Hạ. Nước Tàu phân ra làm Nam-Triều và Bắc Triều. Bắc Triều thì có nhà Ngụy, nhà Tề, nhà Chu nối nhau làm vua; Nam-Triều thì có nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương và nhà Trần kế nghiệp trị-vì.
Trong đời nhà Tấn về năm Quí dậu (433) đời vua Văn-đế, vua nước Lâm-ấp là Phạm Dương Mại thấy nước Tàu loạn-lạc, bèn sai sứ sang cống nhà Tống và xin lĩnh đất Giao-châu để cai trị. Nhưng vua nhà Tống không cho.
Từ đó nước Lâm-ấp lại sang cướp phá ở mạn Nhật-nam và Cửu- chân. Vua nhà Tống bèn sai quan thứ-sử là Đàn Hòa Chi và Tông Xác làm phó tướng đem binh sang đánh Lâm-ấp. Phạm Dương Mại đem quân ra chống cự.
Đàn Hòa Chi và Tông Xác tiến quân chém được tướng, phá được thành, quân Lâm-ấp vỡ tan, Phạm Dương Mại cùng với con chạy thoát được. Đàn Hòa Chi vào đất Lâm-ấp lấy được vàng bạc châu báu rất nhiều. Sử chép rằng Đàn Hòa Chi lấy được một cái tượng bằng vàng mấy người ôm không xuể, đem nấu-đúc được hơn 10 vạn cân. Từ đấy người Tàu biết Lâm-ấp có nhiều của, cứ chực sang lấy. Đàn Hòa Chi cũng từ đấy bị gièm pha, phải cách chức đuổi về.
Năm Kỷ-Mùi (479) nhà Tống mất ngôi, nhà Tề kế nghiệp, trị vì được 22 năm thì nhà Lương lại cướp ngôi nhà Tề.
Trong đời Nam Bắc Triều, đất Giao-châu không được mấy khi yên ổn, vì quan Tàu sang cai-trị có nhiều người thấy bên Tàu loạn, cũng muốn tìm cách để độc-lập, bởi vậy quan lại cứ giết lẫn nhau.
Đời nhà Lương lại sai Tiêu-Tư sang làm thứ sử Giao-châu. Tiêu Tư là một người tàn bạo, làm cho lòng người ai cũng oán giận. Bởi vậy ông Lý Bôn mới có cơ hội mà nổi lên, lập ra nhà Tiền Lý.
13 Về cuối đời Đông Hán lại dời về Long Biên.
14 Bà Triệu, các kỳ xuất bản trước để là Triệu Ẩu. Nay xét ra nên để là Triệu Thị Chinh.
15Ngũ Hồ là 5 rợ: Hung Nô và rợ Yết (chủng loại Mông Cổ), rợ Tiên Ti (chủng loại Mãn Châu), rợ Chi và rợ Khương (chủng loại Tây Tạng)
(43-544)
Ma Yuan defeated Trung Vuong and brought Giao Chi land back to the Han Dynasty as before, then reorganized the army and provisions, led the army to fight and suppress everywhere, built ramparts wherever he went, and changed all political methods in the districts. He brought the government office to Me Linh13 and erected a bronze pillar at the dividing point, engraved with six words: "The bronze pillar falls, Giao Chi dies." Meaning that if the bronze pillar falls, the Giao Chi people will lose their race.
History records that when Giao Chi people passed by that place, everyone threw a stone at the base of the bronze pillar, so later that place became a mountain, the government office was lost, and until now no one knows where that pillar is.
From then on, the politics of the Eastern Han Dynasty became increasingly strict, and the officials who came to govern Giao Chi were often cruel and corrupt, forcing people to go to the mountains and seas to look for treasures. The people of Hop Pho district had to go to the sea to look for pearls, suffering so much that they had to leave their country. The court was far away, and the officials who came to govern were free to act freely, and their cries of grievance went unheard, so there was often chaos, causing much suffering to the people.
The rulers were cruel, and the king mistreated the natives. At that time, even if our people were educated and wise, they were not allowed to hold political positions. It was not until the reign of King Linh De (168-189) at the end of the Eastern Han Dynasty that a native named Ly Tien was appointed as the Governor of Giao Chi. Ly Tien submitted a petition asking for Giao Chi people to be appointed as officials like in Trung Chau in China. But the Han Emperor only allowed those who passed the Mau Tai or Hieu Liem exams to be appointed as subordinates in the country, and not to be appointed as officials in other provinces. At that time, there was a Giao Chi person named Ly Cam who was a guard serving the king in the palace. He gathered a few natives to come out and prostrate themselves in the yard and cry out in anguish. The Han Emperor then allowed a Giao Chi person who passed the Mau Tai exam to be an official in Ha Duong and a person who passed the Hieu Liem exam to be an official in Luc Hop. Later, Ly Cam became the Tu Le Hieu Uy and Truong Trong, also from Giao Chi, became the governor of Kim Thanh. The people of Giao Chi were able to become mandarins like the people of China, starting with Ly Tien and Ly Cam.
Towards the end of the Eastern Han Dynasty, bandits arose in all four directions, the imperial court had no authority to go outside, and there was chaos everywhere. At that time, Giao-chi land was peaceful thanks to the governor Shi Xie who, together with his brothers, divided the districts and counties.
The ancestors of Shi Xie's family were from the Lu country, because when Wang Mang usurped the Han throne, they escaped the chaos and moved to Quang-Tin, Thuong-ngo district. By the time of Shi Xie's biological father, there were six generations. His biological father, named Shi Tu, was the governor of Nhat-nam district, and sent Shi Xie to study in the capital. He passed the filial examination and was appointed as the Shang-thu-lang, but had to resign because of official matters, and then returned to mourn his father. Later, he passed the mother-talent examination and was appointed as the governor of Giao-chi district.
In the year of the Goat (203), the third year of Emperor Xian, the Governor Truong Tan and the Governor Shi Niep submitted a petition to change Giao Chi to Giao Chau. The Han Dynasty Emperor agreed. Later, because there were many bandits in the province, Shi Niep petitioned the Han Dynasty Emperor to allow his brothers to be the Governors of Cuu Chan, Hop Pho, and Nam Hai districts. Shi Niep kept Giao Chau from chaos and maintained the old tribute system, so Emperor Xian granted him the title of An Vien General Long Do Dinh Hau. Shi Niep ruled the people with rules and took care of educating the people, so people admired his merits, so he was honored as Shi Niep.
Historians often think that our country's literature started with Shi Niep. That opinion is probably not true. Because from the time the Han Dynasty ruled Giao-chi until the time of Shi Xie, it had been more than 300 years, and the people of Giao-chi had people who studied and passed the examinations, were filial and honest, and were talented. So it is not too wrong to say that it was only until Shi Xie that Confucianism was introduced. Or perhaps he was a man of letters while serving as an official, and he was concerned with expanding education and helping those who were literate, so it was only later that he was recognized as the founder of learning in the Southern country, which seems more reasonable.
The Eastern Han Dynasty fell and China was divided into three countries: Northern Wei, Western Shu, and Eastern Wu. The land of Giao Chau at that time belonged to the Eastern Wu.
Shi Xie stayed in Giao Chau for 40 years. Although he had real power in Giao Chau, he still followed the custom of paying tribute to the Han Dynasty, and when the Han Dynasty fell, he paid tribute to the Wu Dynasty.
In the year of Bing Ngo (226), the 5th year of the Huangwu Dynasty, Shi Xie died, and his son Shi Huy proclaimed himself the Governor. The Wu ruler, Sun Quan, divided the land of Giao Chau from Hop Pho to the north and called it Quang Chau. He appointed Lu Dai as the Governor of Quang Chau, Dai Luong as the Governor of Giao Chau, and sent Tran Thi to replace Shi Xie as the Governor of Giao Chi District.
When Dai Luong and Tran Thi reached Hop Pho, Si Huy led his troops to defend. The Governor of Quang Chau, Lu Dai, advanced his troops to suppress them, and sent someone to persuade Si Huy to surrender. Si Huy brought five brothers to surrender, Lu Dai ordered Si Huy to be captured and beheaded, and the other brothers were brought back to Ngo Dynasty to be punished.
The Ngo Dynasty merged Quang Chau and Giao Chau into one, and appointed Lu Dai as Governor. Lu Dai led his troops to attack Cuu Chan District, and was awarded the title of Giao Chau Governor.
In the year of Mau Thin (248), the 11th year of Xich O under the Eastern Wu Dynasty, the Lord of Wu sent Luc Dau to be the governor of Giao Chau.
That year, in Cuu Chan district, there was a woman named Trieu Thi Chinh who raised an army to attack the Wu Dynasty.
Our history records that Lady Trieu was from Nong Cong district at that time. When she was young, her parents died, she lived with her brother Trieu Quoc Dat, when she was 20 years old, she met a cruel sister-in-law, she killed her and went to live in the mountains. She was a strong person, had a strong will and was very resourceful. When she went to live in the mountains, she recruited more than 1,000 strong men to be her subordinates. Seeing this, he tried to dissuade her, but she said: "I want to ride the strong wind, step on the rough waves, and kill the whales in the Eastern Sea, and I don't want to imitate people who bow their heads and bend their backs to become someone else's concubine."
In the year of Mau Thin (248), because the Ngo Dynasty's officials were cruel and the people were suffering, Trieu Quoc Dat raised an army to attack Cuu Chan district. She led her army to help her brother. Trieu Quoc Dat's soldiers saw that she was a brave general, so they honored her as their leader. When she went to battle, she rode an elephant and wore a golden armor, calling her Nhuy Kieu Tuong Quan.
The Giao Chau Governor, Luc Dan, led his army to fight. She fought against the Ngo Dynasty for five or six months. But because her army was small and isolated, they fought and lost. She led her army to Bo Dien commune (now Phu Dien commune, My Hoa district) and committed suicide. At that time, she was only 23 years old.
Later, King Nam De of the Tien Ly Dynasty praised her as a loyal and brave person and ordered the construction of a temple to worship her, granting her the title: "Bat chinh anh liet hung tai trinh nhat phu-nhan". Today, in Phu Dien commune, Thanh Hoa province, there is still a temple to worship her.
In the year of Giap Than (264), the first year of Nguyen Hung, the king of the Ngo Dynasty took the land of Nam Hai, Thuong Ngo, and Uat Lam to make Quang Chau, and established the administrative district in Phien Ngung; took the land of Hop Pho, Giao Chi, Cuu Chan, and Nhat Nam to make Giao Chau, and established the administrative district in Long Bien. The land of Nam Viet of the Trieu Dynasty in the past became Giao Chau and Quang Chau from then on.
The land of Giao Chau at that time was always in chaos, the officials of the Ngo Dynasty were often greedy and plundered the people, so the people of Giao Chau rose up, killed the governor, and then surrendered to the Wei Dynasty.
In the year of At Dau (256), the Jin Dynasty usurped the Wei Dynasty's throne, and then sent officials to guard Giao Chau. The Ngo Dynasty sent Dao Hoang to take it back. Dao Hoang was appointed as the governor of Giao Chau. In the year Canh Ty (280), the Ngo dynasty lost its country. Dao Hoang returned to the Tan dynasty and retained his old position. From then on, Giao Chau land belonged to the Tan dynasty.
The Jin Dynasty had gained the world, and seeing that the Wei Dynasty was lost because of this, they greatly promoted their relatives and sent them to guard various places to support the king. But for that reason, the princes often, out of greed for fame and profit, raised troops to fight and kill each other, causing brothers in the family to kill each other, and the throne also became weak.
At that time, in the northwest, there were some bandits who saw that the Jin Dynasty had internal rebellion, so they rose up one after another to gradually occupy the entire area north of the Yangtze River and declared themselves emperors and kings, such as the Trieu Dynasty, the Tan Dynasty, the Yen Dynasty, the Luong Dynasty, the Ha Dynasty, the Han Dynasty, etc., all together up to 16 countries, called the Five-Hu Rebellion15.
Our Giao Chau land still belonged to the Jin Dynasty. The ruling officials, like the officials of the Han and Wu dynasties, occasionally met a few kind and benevolent people, so the people could live in peace. Otherwise, they were greedy and cruel, causing the people to suffer. There were also many times when the officials rebelled and killed each other, causing constant chaos in the country.
At that time, Giao-Chau land had corrupt officials inside, and people from Lâm-Ấp outside came to attack.
The country of Lâm-Ấp (later called Chiêm-Thanh) was from Nhật-Nam district to Chân-Lập, meaning from Quảng-Bình, Quảng-Trị provinces to the land of Nam-Việt today. The Lâm-Ấp people were probably of Malay descent, following Indian religion and politics. That country was also a civilized and prosperous country in the south at that time, but it is not clear when that country first became a country. The book "Kham-dinh Việt Sử" recorded that: in the year of Nhâm-Đân (102) of the Southern Dynasty, there was a district of Tường-Lâm, the people of that district often came to plunder Nhật-Nam district, so the Han king appointed a governor to govern that district, to prevent disorder.
Towards the end of the Han Dynasty, there was a man from Xianglin County named Khu Lien who killed the county magistrate and declared himself king, calling the country Lam Ap. Khu Lien's lineage was lost, so Pham Hung's grandson took over the throne.
During the Three Kingdoms period, the people of Lam Ap often came to raid Nhat Nam and Cuu Chan districts, so when the Jin Dynasty had already taken over Dong Ngo, they wanted to reduce the troops in the prefectures and districts, but the governor of Giao Chau, Dao Hoang, submitted a memorial saying: "The king of Lam Ap, Pham Hung, communicated with Phu Nam and often came to harass Nhat Nam. If we reduce the troops in Giao Chau, we are afraid that the Lam Ap troops will come to raid again."
In this way, the Lam Ap country existed since the beginning of the second century.
Pham Hung passed the throne to his son Pham Dat. When Pham Dat died, his servant Pham Van usurped the throne. Pham Van passed it to his son Pham Phat.
In the year of Quy-Suu (353) under the reign of Emperor Muc-De of the Eastern Jin Dynasty, the governor of Giao-Chau, Nguyen Phu, attacked the king of Lam-Ap, Pham Phat, and destroyed more than 50 forts. Pham Phat died and passed the throne to his son, Pham Ho-Dat. In the year of Ky Hoi (399), Pham Ho-Dat led his army to attack and take the two districts of Nhat-Nam and Cuu-Chan, then went to attack Giao-Chau. At that time, the governor of Giao-Chi, Do Vien, drove out the people of Lam-Ap and took back the two districts. Do Vien was appointed as the governor of Giao-Chau.
In the year of Quy-Suu (413), Pham Ho-Dat again led his army to destroy Cuu-Chan district. At that time, Do Vien's son, Do Tue-Do, was the governor of Giao-Chau, and led his army to attack and kill the generals of Lam-Ap, Pham Kien and his group, and captured more than 100 people.
The people of Lâm-Ấp still had a habit of raiding and pillaging, and every three or five years they would come to harass the land of Nhật Nam. Đỗ Tuệ- Độ intended to attack Lâm-Ấp to eliminate future harm, so in the year Canh-Than (420), he raised troops to attack, killing and maiming, then forced the people of Lâm-Ấp to pay tribute every year: elephants, gold, silver, tortoise shells, etc. From then on, there was temporary peace.
The Pham Ho-Dat lineage ruled for several generations before being usurped by the Lam Ap official Pham Chu Nong. Pham Chu Nong passed the throne to his son Pham Duong Mai.
When Pham Duong Mai became king of Lam Ap, the Jin Dynasty had fallen, and China was divided into the Southern and Northern Dynasties. Pham Duong Mai took the opportunity to harass Giao Chau.
In the year Canh Than (420), Liu Yu usurped the throne of the Eastern Jin Dynasty and established the Song Dynasty in the South. At that time, in the North, the Wei Dynasty included the Liang, Yen, and Xia States. China was divided into the Southern and Northern Dynasties. The Northern Dynasties had the Wei, Qi, and Zhou Dynasties succeeding each other as kings; the Southern Dynasties had the Song, Qi, Liang, and Tran Dynasties succeeding each other as kings.
During the Jin Dynasty, in the year of Quy Dau (433) under Emperor Van De, the king of Lam Ap, Pham Duong Mai, saw that China was in chaos, so he sent an envoy to pay tribute to the Song Dynasty and asked to receive Giao Chau land to rule. But the Song Dynasty king did not grant it.
From then on, Lam Ap went to pillage in Nhat Nam and Cuu Chan. The Song Dynasty king then sent the governor, Dan Hoa Chi and Tong Xac as deputy generals to lead troops to attack Lam Ap. Pham Duong Mai led troops to resist.
Dan Hoa Chi and Tong Xac advanced, killed the general, broke the citadel, the Lam Ap army was defeated, Pham Duong Mai and his son escaped. Dan Hoa Chi entered Lam Ap and took a lot of gold, silver and jewels. History records that Dan Hoa Chi took a golden statue that several people could not hug, and it was melted and cast to weigh more than 100,000 pounds. From then on, the Chinese knew that Lam Ap had a lot of wealth, so they kept coming to take it. From then on, Dan Hoa Chi was slandered and had to be dismissed from his position and sent back.
In the year of Ky Mui (479), the Song Dynasty lost its throne, and the Qi Dynasty succeeded it. After ruling for 22 years, the Liang Dynasty usurped the Qi Dynasty's throne.
During the Southern and Northern Dynasties, Giao Chau was rarely peaceful, because many Chinese officials came to rule, seeing the chaos in China, they also wanted to find ways to become independent, so the officials kept killing each other.
During the Liang Dynasty, Tieu Tu was sent to be the governor of Giao Chau. Tieu Tu was a cruel person, causing resentment among the people. Therefore, Ly Bon had the opportunity to rise up and establish the Tien Ly Dynasty.
13At the end of the Eastern Han Dynasty, she moved to Long Bien.
14Lady Trieu, in previous editions, was called Trieu Au. Now, it should be called Trieu Thi Chinh.
15The Five Barbarians are the five barbarians: the Xiongnu and the Yet barbarians (Mongol race), the Xianbei barbarians (Manchu race), the Chi barbarians and the Jiang barbarians (Tibetan race)